Viêm cốt tủy do bạch cầu cấp ở trẻ em

Viêm cốt tủy hay viêm xương tủy là bệnh lý hệ xương từ đường máu do nhiều căn nguyên gây ra. Bệnh thường xảy ra ở trẻ em nhỏ với diễn tiến gây hạn chế vận động hoặc tàn tật ở trẻ sau này. Cần lưu ý viêm cốt tủy có thể là dấu hiệu của bệnh về máu cần được chẩn đoán. 

Một trường hợp hiếm gặp

Bé gái 7 tuổi, ở TP.HCM, nhập viện vì sốt và đau vai bên trái. 5 ngày trước nhập viện, cháu sốt liên tục, kêu đau nhiều ở vùng vai bên trái đến nỗi không cử động được cả cánh tay. Khám bệnh thấy cháu có sốt dao động, vài hồng ban rải rác ở ngực và lưng. Khớp vai (T) đau khi cử động. Không có bất kỳ dấu hiệu tổn thương ở các cơ quan khác. Hỏi kỹ bệnh mẹ cho biết 6 tuần trước đó cháu đã điều trị ở bệnh viện tư vì sốt và đau vai bên phải.

Viêm cốt tủy do bạch cầu cấp ở trẻ em 1
Cần đưa trẻ đi khám khi có dấu hiệu bất thường

Chụp X-quang hệ xương và siêu âm không thấy tổn thương tại xương và khớp vai 2 bên. Chẩn đoán hình ảnh MRI mới phát hiện tình trạng viêm xương tủy xương bả vai (T) phần trên gai vai, có abces mỏng dưới màng xương, viêm khớp cùng vai (T). Kiểm tra MRI  sau 2 tuần xuất hiện thêm ổ tổn thương cốt tủy mặt sau đầu dưới xương đùi (P). Xét nghiệm máu giảm cả 3 dòng HCT 28,3%, BC 5.330/mm3, TC 123.000/mm3. Do vậy được làm tủy đồ. Kết quả ghi nhận cả 3 dòng tế bào tủy đều phát triển rất kém, tủy tràn ngập tế bào non dòng tân bào giúp chẩn đoán bệnh viêm cốt tủy tái phát trên trẻ bạch cầu cấp dòng lympho.

Bệnh thường gặp ở trẻ em nhỏ

Viêm cốt tủy là bệnh hay khởi phát ở trẻ dưới 5 tuổi, 2/3 các trường hợp gặp ở trẻ nhỏ hơn 2 tuổi. Tỉ lệ mắc bệnh 1/5.000 trẻ, sơ sinh mắc nhiều hơn (1/1.000), trẻ trai bệnh nhiều hơn trẻ gái (2/1).

Gây bệnh từ đường máu với cơ chế gây tổn thương tủy xương ở trẻ em bắt đầu trong thân xương. Tác nhân nhiễm trùng theo đường máu đi vào mạch máu ở xương, làm thuyên tắc động mạch nuôi gây ra thiếu máu và ngăn cản cơ chế phòng vệ đến được nơi này. Kém tưới máu màng ngoài xương gây hoại tử, tiêu xương. Quá trình viêm xảy ra ở mô liên kết giữa các mô kế cận. Sau nhiều ngày sẽ có tình trạng tràn dịch vô khuẩn do phản ứng xảy ra ở gần khớp. Không điều trị mô hạt sẽ mọc quanh xương chết, tách rời vỏ xương và hình thành mảnh xương chết. Xương mới mọc sẽ xuất hiện xung quanh xương chết tạo thành bao xương chứa các ống xoang giữa xương nên dễ bị gãy. Tổn thương hoại tử có thể lan rộng quanh thân xương, đến vùng xương tăng trưởng và vào cả khớp.

Vị trí ở các xương dài 

Khác với người lớn viêm cốt tủy thường xuất hiện ở xương sống hoặc xương chậu. Ở trẻ em tổn thương thường xảy ra ở các xương dài như xương đùi và xương chày (50%), kế là xương cánh tay (25%). Các xương dẹt ít bị bệnh hơn. Viêm cốt tủy cũng có thể xảy ra ở nhiều xương (10%) và có thể liên quan đến các khớp.

Dấu hiệu lâm sàng thay đổi theo tuổi. Ở trẻ nhỏ, dấu hiệu sớm là biểu hiện giả liệt, đau khi cử động thụ động hoặc cả 2. Trẻ lớn hơn thường sốt, đau đến nỗi không thể hoặc không chịu đi đứng vì đau. Khớp liên quan thường ở tư thế hơi duỗi để giúp trẻ bệnh bớt đau và dễ chịu hơn. Da bị sưng, đỏ hoặc sờ căng là dấu hiệu tổn thương lan đến vỏ xương. Các triệu chứng khác có thể gặp ở trẻ như quấy khóc, nôn ói.

Chẩn đoán hình ảnh quan trọng

Những xét nghiệm sinh học cho kết quả thay đổi không đặc hiệu như thiếu máu trung bình, CRP tăng cao, VS tăng cao. Chẩn đoán hình ảnh giữ vai trò quyết định trong chẩn đoán. Chụp X-quang trong vòng 72 giờ từ khi xuất hiện triệu chứng nhằm loại trừ những nguyên nhân khác như chấn thương, dị vật. So sánh 2 bên để tìm ra hình ảnh phù nề các mô ở sâu. Hình ảnh tiêu xương phát hiện chậm, sau 7 - 14 ngày. Chụp CT chỉ ra những bất thường ở xương và mô mềm, đặc biệt phát hiện được hơi trong mô mềm. Nhấp nháy đồ có thể phát hiện viêm cốt tủy trong vòng 24 - 48 giờ, nhằm khảo sát tòan bộ xương, có khả năng phát hiện nhiều ổ tổn thương. MRI được xem là xét nghiệm chuyên biệt có độ đặc hiệu cao giúp xác định abces và phân biệt nhiễm trùng ở xương và mô mềm. MRI còn cung cấp các chi tiết khá chính xác tình trạng tụ mủ dưới màng xương và cặn mủ trong tủy xương.

Diễn tiến tái đi tái lại

Bệnh viêm cốt tủy cấp có thể tiến triển âm ỉ thành mãn tính với diễn tiến bệnh kéo dài, có những giai đoạn im lặng nhưng tái diễn nhiều lần (<5%). Các biến chứng muộn có thể gặp là gãy xương bệnh lý. Điều trị muộn trẻ có thể bị ngắn xương và biến dạng.

Lưu ý nguyên nhân không do nhiễm khuẩn

Nguyên nhân không do nhiễm khuẩn thường đề cập trong y văn là bệnh mô bào Langerhans, bướu xương, bệnh ác tính, hay bệnh tạo keo. Do bệnh về máu bạch cầu cấp hiếm gặp (dưới 2%). Nếu tổn xương chỉ ở một xương đặt ra vấn đề chẩn đoán khác biệt với bướu xương ác tính (bướu Ewing, neuroblastome). Tổn thương đa ổ tái phát mãn tính như trong trường hợp này cần lưu ý nguyên nhân không nhiễm khuẩn. Đây là trường hợp bệnh hiếm gặp gợi lại những đặc điểm lâm sàng, sinh học và hình ảnh chẩn đoán bệnh viêm cốt tủy do bạch cầu cấp ở trẻ em giúp các bác sĩ nhi khoa có sự lưu tâm để chẩn đoán sớm, giúp điều trị thích hợp sớm bệnh trẻ em.

BSCK2. NGUYỄN THỊ KIM THOA


Mức selen trong máu thấp làm tăng nguy cơ ung thư gan

Giáo sư Lutz Schomburg và đồng nghiệp đã phân tích dữ liệu của khoảng 477.000 người trưởng thành trong cuộc điều tra về ung thư và dinh dưỡng của châu u. Nghiên cứu xác định có 121 bệnh nhân ung thư gan, 100 bệnh nhân ung thư túi mật và đường mật, 40 bệnh nhân ung thư ống mật trong gan. Tất cả các bệnh nhân đã phát triển các loại ung thư trong hơn 10 năm theo dõi. Các nhà khoa học đã thu thập mẫu máu của các bệnh nhân ung thư để đánh giá mức độ selen trong máu so với những người khỏe mạnh. Kết quả cho thấy, 1/3 những người có nồng độ selen thấp nhất có nguy cơ mắc ung thư gan cao gấp từ 5-10 lần. Các chuyên gia đưa ra lời khuyên hàm lượng selen hàng ngày của người lớn là 100microgam đối với nam, 70microgam đối với nữ, trẻ em là 10-15microgam/ngày. Selen có nhiều trong các loại thực phẩm như lúa mỳ, ngô, bắp cải, đậu hà lan, cà rốt, củ cải, cà chua, tỏi đặc biệt là trong các loại cá.

H.Minh

((Theo Health, 9/2016))

Những loại đau đầu ít gặp nhưng không kém phần nguy hiểm

Đau đầu do gắng sức

Loại đau đầu này xuất hiện trong vòng vài phút sau những nỗ lực thể chất, bao gồm tập luyện, quan hệ tình dục, hắt hơi, cười, thậm chí là đi đại tiện.

Khi bạn gắng sức do thực hiện một số hoạt động, áp lực dịch não tủy trong đầu tăng trong một thời gian ngắn. Áp lực này dẫn tới đau, nhưng may mắn là không đáng lo ngại và sẽ hết trong vòng vài phút (hoặc có thể tới 1 giờ)

Trong những trường hợp hiếm, có thể là một rối loạn mạch máu gây đau, vì vậy nếu đau đầu nghiêm trọng đột ngột, bạn cần đi khám bác sĩ.

Đau đầu do cao huyết áp

Đây là loại đau đầu liên quan đến huyết áp, thường xảy ra khi huyết áp tăng cao 200/110 hoặc cao hơn. Khi huyết áp tăng rất cao, mạch máu có thể hạn chế lưu thống máu tới não. Đau đầu do tăng huyết áp có thể cảm thấy giống như đau đầu khi đeo băng-đô, cơn đau thường rất tồi tệ vào buổi sáng, cải thiện hơn trong ngày.

Viêm động mạch tế bào khổng lồ

Nguyên nhân của chứng đau đầu kinh khủng này vẫn chưa được biết đến nhưng tình trạng là cực kỳ nghiêm trọng. Bệnh có liên quan đến viêm và phần lớn xảy ra ở những người trên 60 tuổi, người bệnh thường cũng cảm thấy đau xung quanh khu vực tai khi nhai. Khoảng 1/3 những người bị viêm động mạch tế bào khổng lồ sẽ bị mù, vì vậy, đây là tình trạng cần được chẩn đoán sớm. Các bác sĩ sẽ bắt đầu điều trị với steroid càng sớm càng tốt để phòng ngừa mù và cải thiện đau.

Đau dây thần kinh tam thoa

Càng lớn tuổi, bạn càng dễ bị tình trạng đau này ở thái dương và xung quanh hàm. Cơn đau buốt giống như sốc điện, người bị tình trạng này có thể bị vài đợt sốc mỗi ngày, có thể do động mạch chèn lên dây thần kinh. Theo Hội Đau đầu quốc gia Mỹ, thuốc làm giãn cơ có thể giúp ích nhưng nếu bệnh nhân bị những triệu chứng này dưới 55 tuổi, đó có thể là do bệnh thần kinh, như bệnh xơ cứng rải rác.

BS Cẩm Tú

(Theo Prevention)

Thục địa

Địa hoàng có tên khoa học: Rehmannia glutinosa (Gaertn). Họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae). Sinh địa là thân rễ phơi hay sấy khô của cây địa hoàng; còn thục địa được chế biến từ sinh địa theo dạng đồ, nấu chín. Thục địa được xem là thuốc chủ yếu để bổ thận.

Những công dụng bổ thận

Theo GS.TS. Đỗ Tất Lợi, sinh địa và thục địa đều là thần dược (thuốc quý rất tốt) để chữa bệnh về huyết, nhưng sinh địa thì mát huyết, người nào huyết nhiệt nên dùng, thục địa ôn và bổ thận, người huyết suy nên dùng.

Cũng theo GS.TS. Đỗ Tất Lợi, thục địa bổ tinh tủy, nuôi can thận, sáng tai mắt, đen râu tóc là thuốc tư dưỡng, cường tráng. Những người thần trí lo nghĩ hại huyết, túng dục hao tinh nên dùng thục địa.

thuc dia

Theo tài liệu cổ, thục địa vị ngọt, tính hơi ôn vào 3 kinh: Tâm, Can, Thận. Có tác dụng nuôi thận, dưỡng âm, bổ thận, làm đen râu tóc, kinh nguyệt không đều, tiêu khát, âm hư, ho suyễn.

Y học hiện đại nhận thấy, địa hoàng (sinh địa, thục địa) có tác dụng: hạ đường huyết, làm mạnh tim, hạ huyết áp, bảo vệ gan, lợi tiểu, cầm máu và tác dụng lên một số vi trùng nên có tác dụng kháng viêm...

Ở y học cổ truyền, thục địa là vị thuốc chủ yếu để bổ Thận, thuốc tốt nhất để dưỡng âm. Thục địa là thuốc vị “quân” trong nhiều cổ phương, như: Lục vị địa hoàng hoàng hoàn (thục địa, hoài sơn, sơn thù, đơn bì, trạch tả, bạch linh) hay bài Tứ vật (thục địa, bạch thược, đương quy, xuyên khung)...

Bào chế công phu

Trên thị trường, thục địa cũng dược chế biến từ củ sinh địa và cũng có màu dược liệu là đen nhưng độ tin cậy không cao, có nơi dùng rỉ mật mía để tẩm ướp thay vì chế biến theo quy trình công phu mà người xưa gọi là cửu chưng, cửu sái.

Để bốc thuốc cho bệnh nhân, chúng tôi tự mua dược liệu về và chế biến thành thục địa, theo hướng dẫn của tài liệu cổ và kinh nghiệm lâu năm của bản thân. Bởi vì, chất lượng thuốc có ý nghĩa quan trọng, quyết định “thành bại”, hiệu quả điều trị.

Củ địa hoàng khi mua về được rửa sạch, phơi khô. Sau đó, cứ 10kg sinh địa cho thêm 1kg sa nhân, 2kg gừng khô bỏ vào nồi áp suất nấu với nhiệt độ từ 200 - 2200c. Nấu nồi áp suất giúp dược liệu giữ được tinh dầu, hương vị. Sau 12 tiếng, lấy dược liệu ra để nguội, phơi khoảng 2 - 3 ngày cho khô. Dịch còn lại trong nồi được cô bớt rồi thêm một chút rượu, rồi đưa đi ủ vào số thục địa, cho nguyên liệu khô hút dịch này. Sau đó lại đem số thục địa và nước dịch còn lại vào nồi áp suất… Quy trình nấu thuc địa như vậy lặp đi, lặp lại khoảng 4 - 5 lần là được. Lần cuối cùng dược liệu được phơi hoặc sấy khô. Chu trình nấu khoảng 15 ngày cho một mẻ dược liệu, thành phẩm là thục địa màu đen huyền, cứng và dẻo (khi gặp không khí), thơm.

Thục địa qua chế biến như vậy mới trở nên bổ thận, không còn tính nê trệ của sinh địa nữa.

Bài thuốc dùng thục địa

Những bài thuốc của tôi (dựa trên cổ phương và sự nghiên cứu của bản thân trên sách vở cùng kinh nghiệm lâm sàng) dùng chữa các trường hợp vô sinh - hiếm muộn nam, nữ thường có vị thục địa.

Cụ thể bài thuốcbổ thận sinh tinh nam: Thục địa 100g, nhục thung dung 50g, huỳnh tinh 100g, kỷ tử 50g, sinh địa 50g, dâm dương hoắc 50g, hắc táo nhân 40g, quy đầu 50g, cam cúc hoa 30g, cốt toái bổ 40g, xuyên ngưu tất 40g, xuyên tục đoạn 40g, nhân sâm 40g, bắc kỳ 50g, phòng đảng sâm 50g, đỗ trọng 500g, đảng sâm 40g, trần bì 20g, đại táo 30 quả, lộc giác giao 40g.

thuc diaCây địa hoàng

Trong đó: thục địa, nhục thung dung, huỳnh tinh, kỷ tử: bổ thận sinh tinh; lộc nhung, lộc giác giao: bổ mạnh tinh huyết; nhân sâm, đảng sâm, bắc kỳ, đan sâm: bổ khí, tăng cường sức khỏe; đương quy, xuyên khung: dưỡng huyết; sinh địa, táo nhân: dưỡng huyết, an thần. Các vị thuốc khác có tác dụng hỗ trợ bổ thận cường dương, sinh tinh huyết. Bài thuốc này dùng để ngâm rượu uống.

thuc diaThục địa

Bài Lục vị hoàn chữa vô sinh nữ: thục địa 320g, hoài sơn 240g, sơn thù 200g, đơn bì 120g, trạch tả 120g, bạch linh 160g. Thục địa nấu cao pha mật ong; các vị còn lại sấy khô tán mịn, hoàn với mật ong mỗi viên 10g. Ngày uống 4 viên chia sáng chiều. Trong một số trường hợp, tôi có gia giảm một vài vị thuốc khác cho phù hợp.

Tóm lại, vị thuốc thục địa rất quan trọng trong những phương thuốc giúp bổ thận, bổ khí huyết, sinh tinh (nam giới), điều kinh (nữ giới), qua đó giúp người bệnh có thể có con, hồi phục sức khỏe.

BS. NGUYỄN PHÚ L M

((Chủ tịch Hội Đông y Mang Thít, Vĩnh Long))

Dược liệu “bẩn”, sự thật thế nào?

Lâu nay, một số phương tiện thông tin đại chúng nêu vấn đề dược liệu nhập lậu, dược liệu “bẩn”, dược liệu không đủ chất lượng… sự thật như thế nào? Chúng tôi xin có một vài ý kiến phân định để người tiêu dùng biết, an tâm sử dụng.

Trong Đông y thường dùng nguyên liệu làm thuốc là thảo mộc, khoáng vật, động vật nhưng thảo mộc được dùng nhiều hơn cả, trong thảo mộc thường dùng: lá, hoa, quả, hạt, thân cây, rễ cây (củ). Nguyên liệu thu hái về phơi hoặc sấy khô gọi là dược liệu. Khi các thầy thuốc mua dược liệu về bào chế thành phẩm gọi là thuốc Đông y. Các cụ xưa cho rằng thầy thuốc Đông y dùng thuốc hơn nhau ở chỗ bào chế sao tẩm. Bào chế thuốc Đông y mục đích để giảm bớt tính độc của dược liệu (nếu có), tính hàn, tính nhiệt, làm tăng tác dụng của thuốc. Mục đích cuối cùng là đưa thuốc vào đúng vị trí của bệnh, mà nay ta thường gọi là đưa thuốc vào địa chỉ.

Dược liệu thuốc Đông y được bào chế và sao tẩm nhằm giảm bớt độc tính và tăng tác dụng của thuốc.

Ví dụ: Bạch truật sao với hoàng thổ là để đưa thuốc vào tỳ vị để bổ tỳ kiện vị. Nay không có hoàng thổ thì sao với dầu cám, dầu cám có tác dụng bổ tỳ vị, làm giảm bớt tính ráo của bạch truật; Bạch thược dùng sống để bổ âm, sao với giấm để thuốc vào gan, chữa bệnh ở gan, sao với rượu để đưa thuốc vào huyết chữa bệnh ở huyết, có một phần bổ âm huyết; Đương qui dùng sống để hành huyết, thông lợi, sao với rượu để bổ huyết; Viễn chí là vị thuốc an thần nhưng phải bỏ lõi, nếu để cả lõi thì gây ra chứng hồi hộp tim, sao với rượu để đưa thuốc vào tâm (tim), trong Đông y tâm chủ huyết…

Hiện nay, một số bệnh viện y học cổ truyền ở địa phương và một số thầy thuốc Đông y thường không sao tẩm, dùng thuốc sống để chữa bệnh, không những kết quả kém mà có khi phản tác dụng.

Dược liệu nhập từ Trung Quốc theo đường tiểu ngạch tốt xấu thế nào chúng tôi xin nói rõ sau đây: Trung Quốc đưa sang Việt Nam theo đường tiểu ngạch phần nhiều là dược liệu loại 3 và 4, không có dược liệu loại 1 và 2, còn có thuốc giã, bã thuốc là thứ dược liệu mà họ đã rút hết hoạt chất, còn bã đưa sang bán cho Việt Nam như: đương qui, hoàng kỳ, ba kích, xuyên khung…Gần đây, cơ quan chức năng bắt được một số dược liệu nhập từ Trung Quốc không có nguồn gốc xuất xứ, phóng viên TTXVN có đưa đến 6 vị thuốc nhờ chúng tôi phân biệt thuốc tốt xấu. Bằng mắt thường với kinh nghiệm của một người làm thuốc lâu năm, chúng tôi thấy có hai vị đương qui và cam thảo là chính phẩm, vị đan bì thuốc loại 3, vị xuyên khung và hoàng kỳ là bã thuốc vì họ đã ép lấy hết hoạt chất, vị uy linh tiên thường dùng rễ nhưng họ đã tĩa mất 2/3 rễ, còn lại cái gốc và một ít rễ, loại này khi bào chế chúng tôi thường bỏ đi không dùng. Còn thuốc nhập của Trung Quốc có chất độc hay không thì để cơ quan chức năng trả lời.

Việc xông thuốc bằng diêm sinh có người hỏi có độc hay không? Hàm lượng bao nhiêu là vừa? Không phải vị thuốc nào cũng xông diêm sinh được, vì làm biến chất dược liệu, đổi màu dễ hỏng. Xông diêm sinh trong Đông y cho phép với một số dược liệu như: lá dễ mốc mọt, một số củ có tinh dầu nếu phơi khô thì mất tinh dầu, kém tác dụng như đương qui, ngưu tất, với tỷ lệ 20% cứ 100kg dược liệu thì dùng 20g diêm sinh đốt lên xông khói trong một cái lò bằng đất, chứ không phải tẩm diêm sinh như một số người đồn thổi. Còn địa phương vừa rồi xông diêm sinh hoài sơn (củ mài) là sai qui trình, củ mài chỉ phơi khô dùng sống, không được xông diêm sinh làm đổi màu mất tác dụng.

Theo điều tra của Viện Dược liệu Trung ương có khoảng 3.900 loại cây làm thuốc, các thầy thuốc Đông y ở địa phương mới dùng khoảng 200 cây, Nhà nước mới dùng khoảng 80 cây, còn lại 3.620 cây chưa dùng đến. Tại sao chúng ta không tổ chức khai thác để sử dụng. Thế kỷ thứ 14, Tuệ Tĩnh đã dạy chúng ta “Nam dược trị Nam nhân” có nghĩa là thuốc Nam trị bệnh cho người Việt Nam. Thế kỷ 18, Hải Thượng Lãn Ông đã nói trong bộ sách Hải thượng y Tông Tâm lĩnh “… Như thuốc Nam thì rất tốt, rất nhiều, rất rẻ nhưng không biết dùng để chữa bệnh…”. Thập kỷ 60-70 của thế kỷ trước, ngành y tế đã có những công ty thu mua thuốc Nam trong nhân dân về chế biến bán ra thị trường cho người tiêu dùng, vừa bảo đảm chất lượng, vừa an toàn. Công ty thuốc Bắc nhập dược liệu từ Trung Quốc theo đường chính ngạch bào chế thành thuốc chín (thuốc Đông y) bán cho các bệnh viện và các thầy thuốc Đông y dùng, đảm bảo chất lượng, chữa bệnh cho nhân dân, bệnh nhân yên tâm sử dụng không phải lo lắng như hiện nay. Nếu hiện nay chúng ta tổ chức những tập đoàn nhập khẩu thuốc Trung Quốc theo đường chính ngạch như năm xưa thì không bị họ bán thuốc kém chất lượng, bã thuốc như hiện nay.

Dược liệu, thuốc Đông y là một nội dung quan trọng trong chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân hiện nay mà Đảng và Chính phủ hết sức quan tâm. Mỗi chúng ta cần hiểu điều đó để tổ chức thực hiện cho tốt.

TTND.BS. Nguyễn Xuân Hướng

Rễ nhàu khô làm thuốc

Rễ nhàu là bộ phận được dùng làm thuốc nhiều hơn cả trong các bộ phận của cây nhàu. Nhàu thuộc họ cà phê, mọc nhiều ở những vùng ẩm thấp dọc theo bờ sông, suối, mương rạch. Dược liệu là phần rễ của cây nhàu, rửa sạch, thái lát mỏng, phơi hoặc sấy khô. Các bộ phận khác (quả, lá) trị bệnh đường tiêu hóa thường được dùng tươi.

Theo kinh nghiệm dân gian, quả nhàu non có thể thái nhỏ phơi khô, sao vàng nấu nước uống, có tác dụng như rễ nhàu giúp giảm đau, người bị hen suyễn bớt cơn hen, giảm căng thẳng, chữa đau nửa đầu, đau lưng, đau cơ, dưỡng tâm, an thần, thông kinh hoạt huyết. Theo nghiên cứu của y học hiện đại, tinh chất rễ nhàu tăng cường cholesterol tốt và giảm cholesterol xấu, thông thoáng các mạch máu, bền thành mạch, giảm huyết áp... Dùng riêng hoặc phối hợp với một số vị thuốc khác trong những trường hợp sau:

Chữa nhức đầu, đau nửa đầu: Rễ nhàu 24g, muồng trâu 12g, cối xay 12g, rau má 12g, củ gấu (sao, tẩm) 8g. Sắc uống, chia làm 2 lần trong ngày, uống ấm. Dùng liền 7-10 ngày.

Lá nhàu trị bệnh đường tiêu hóa, quả nhàu non phơi khô làm thuốc.

Trị tăng huyết áp: Rễ nhàu khô: 30g, sắc uống như trà hàng ngày; Có thể sử dụng 2-3 tuần là một liệu trình. Tùy theo chỉ số huyết áp cơ thể (đã hạ), có thể giảm liều 8-12g/ngày.

Chữa mất ngủ, suy nhược thần kinh: Rễ nhàu 24g, thảo quyết minh (sao thơm) 12g, rau má 8g, thổ phục linh 8g, vỏ bưởi 6g, sinh khương 3g. Sắc uống, chia làm 2 lần trong ngày, uống ấm. Dùng liền 7-10 ngày.

Trị đau nhức xương: Rễ nhàu khô, sao vàng 200g, ngâm với 1.000ml rượu 35 độ, sau 6-8 tuần có thể dùng được. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 20ml trước bữa ăn.

Trị chấn thương, huyết ứ, bầm tím: Rễ nhàu 24g, rễ mía dò 10g; củ tầm sét 10g. Sắc uống trong ngày, uống trước bữa ăn. Có thể uống 7- 10 ngày liền đến hết các triệu chứng.

Kích thích tiêu hóa, lợi tiểu, điều kinh: Quả nhàu chín ăn với muối.

Trị kiết lỵ, mệt mỏi, chóng mặt: Lá nhàu tươi 12g. Lá cỏ sữa 10g, sắc uống.

Chữa mụn nhọt: Lá nhàu tươi, giã nát, đắp lên vết thương.

DS. Mai Thu Thủy

Mùa bệnh trẻ em

Thời tiết cũng là yếu tố  ảnh hưởng quan trọng đến các vấn đề sức khỏe trẻ em. Đáng lưu ý  dễ mắc bệnh nhất là những tháng cuối năm, khi tiết trời trở lạnh. Do vậy, mùa lạnh còn được gọi là mùa bệnh ở trẻ em.

Mùa lạnh là mùa bệnh trẻ em

Thống kê tại Bệnh viện (BV) Nhi Đồng 1 TP.HCM cho thấy, thời tiết chuyển lạnh là mùa đông bệnh nhất trong năm. Nguyên nhân do trẻ không thể điều chỉnh nhiệt độ cơ thể của mình như người lớn, có thể nhiễm lạnh rất nhanh nên dễ mắc bệnh. Thời tiết lạnh thích hợp cho nhiều loại virút hô hấp phát triển và hoành hành gây bệnh.

Các bệnh hô hấp lây lan rất nhanh qua các giọt dịch tiết hô hấp bắn ra khi trẻ bệnh hắt hơi, sổ mũi, khạc nhổ. Trẻ đi học tiếp xúc gần gũi với các trẻ khác trong môi trường học tập, đây là điều kiện lây lan, làm nhiều trẻ khác cùng mắc bệnh.

Đáng chú ý, mùa lạnh còn là mùa chào đời của những trẻ sơ sinh, nhỏ bé và yếu ớt, có nguy cơ mắc bệnh và dễ bị nặng nên việc phòng bệnh cho trẻ trong mùa lạnh là điều rất cần thiết mà các bậc phụ huynh cần chú ý.

Mùa bệnh trẻ em 1
Tắm trẻ trong phòng kín gió, đảm bảo nước tắm ấm (32oC)

Những vấn đề sức khỏe trẻ em trong mùa lạnh

Mùa lạnh ở nước ta có sự chênh lệch thời tiết trong ngày: lạnh nhiều vào chiều tối và buổi sáng nhưng lại nóng hơn vào buổi trưa, đan xen những đợt mưa bão cùng những ngày áp thấp nhiệt đới. Khả năng điều chỉnh nhiệt độ cơ thể lại giảm theo tuổi do vậy trẻ em bị mất nhiệt nhanh hơn so với người lớn. Tình trạng mất nhiệt chủ yếu xảy ra qua da, hơi thở. Đó là lý do trời lạnh, trẻ có nguy cơ bị nhiễm lạnh, tổn thương đường thở và ở da.

- Nhiễm lạnh do không được giữ đủ ấm, làm trẻ bị run rẩy, da sờ thấy lạnh, buồn ngủ, nói năng líu nhíu. Nặng hơn trẻ bị tê cóng, hệ thần kinh và các cơ quan hoạt động chậm đi làm trẻ lú lẫn, hôn mê, thở chậm, nhịp tim chậm hơn , ảnh nưởng đến tính mạng.

- Hít thở không khí lạnh, đường thở của trẻ bị khô đi tạo điều kiện cho các loại virút phát triển mạnh mùa lạnh bám lên đó và gây bệnh hô hấp. Cảm lạnh, viêm mũi, viêm họng, viêm amiđan, viêm thanh khí quản, viêm phế quản, viêm phổi, suyễn, nếu không chăm sóc thích hợp có thể trở nặng nguy hiểm. Nếu tự ý điều trị kháng sinh, nhỏ mũi, xông thuốc, dùng thuốc không đúng có thể làm bệnh khó điều trị hoặc diễn tiến kéo dài, có thêm biến chứng.

- Da trẻ mỏng manh, cấu trúc da chưa hoàn thiện nên dễ bị ngứa và khô đi khi trời lạnh. Nổi mẩn dị ứng, hoặc mề đay do lạnh, chàm da làm trẻ ngứa ngáy, khó ngủ. Da khô do không đủ ẩm sẽ bị xước hoặc nứt nẻ, gây đau và khó chịu.      

- Trời lạnh làm trẻ thèm ăn và thích ăn ngọt hơn là nguy cơ tăng cân đối với trẻ béo phì. Chu kỳ ngày đêm cũng thay đổi, ngày ngắn đêm dài hơn, làm trẻ ngủ nhiều không thức dậy đúng giấc khiến cơ thể dễ suy nhược. Một số trẻ lớn có thể bị rối loạn tâm lý theo mùa như: dễ cáu kỉnh, buồn bã, mệt mỏi, khó tập trung, không còn hứng thú với các hoạt động thú vị trước đó. Những thay đổi này dễ dẫn đến những xung đột với những người xung quanh.

Giữ cho trẻ đủ ấm

Da là cơ quan tỏa nhiệt chủ yếu để duy trì thân nhiệt ổn định, chiếm gần 90% lượng nhiệt của cơ thể, trong đó, gần 50% qua da đầu do tỉ lệ đầu trên cơ thể lớn hơn ở người lớn. Mất nhiệt tăng lên ở trẻ sơ sinh, hoặc khi trẻ bị lạnh, ướt. Một số cách giúp trẻ đủ ấm cho trẻ như sau:

- Mặc cho trẻ quần áo ấm, đội nón, quấn khăn, mang bao tay, vớ tất. Tránh quần áo quá chật hoặc băng rốn, quấn tã quá chặt. Quấn chặt không làm trẻ ấm hơn như mong muốn.

- Giữ cho phòng ngủ không bị gió lùa và ấm cả ngày lẫn đêm. Trẻ sơ sinh nằm cùng giường với mẹ. Bú mẹ, cũng là một cách giữ ấm.

- Tránh giữ ấm bằng nằm than, chai nước nóng hay gạch hơ nóng vì có thể gây tổn thương da trẻ.

Khi tắm trẻ có nguy cơ mất nhiệt, phương pháp tắm nhiều bước giúp trẻ được ấm như sau:

- Tắm trong phòng kín gió. Chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng để trẻ không bị cởi trần lâu và tắm được nhanh hơn. Đảm bảo nước tắm ấm (32oC).

- Rửa mặt trẻ trước, gội đầu sau cùng. Sau khi gội, lau khô tóc và da đầu cho trẻ ngay, lau nhiều lần đến khi đảm bảo tóc khô.

- Tắm nhanh cho trẻ. Lau khô trẻ thật nhanh và hoàn toàn bằng khăn ấm. Mặc quần áo, áo ấm. Trẻ nhỏ đội mũ, quấn tã và đặt vào mẹ ngay.

Không tự ý dùng kháng sinh, nhỏ mũi, xông thuốc

Các biện pháp giúp trẻ phòng chống bệnh mùa lạnh cần áp dụng thường xuyên để tăng cường sức khỏe:

- Giúp trẻ ăn bổ, ngủ ngon, học đủ, chơi an toàn. Chọn thức ăn nóng, uống nước ấm. Tránh ăn thức ăn lạnh, quá mặn hoặc quá ngọt. Giữ da và rốn trẻ sạch khô. Dùng kem dưỡng ẩm duy trì độ ẩm da. Cắt móng tay ngắn, tránh gãi ngứa. Không tự ý băng, đắp thuốc theo kinh nghiệm.

- Dạy trẻ thói quen vệ sinh:

- Rửa sạch tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Người chăm sóc cũng phải thường xuyên rửa tay trước khi ẵm bồng hoặc chăm sóc trẻ, chế biến thức ăn và cho trẻ ăn uống.

- Che miệng mũi khi ho, hắt hơi. Không khạc nhổ bừa bãi. Không dùng tay để dụi mắt, chùi quẹt mũi.

- Dạy trẻ không dùng chung khăn lau, không ăn uống chung chén, ly, muỗng với trẻ khác.

- Đảm bảo chủng ngừa đầy đủ, lưu ý ngừa cúm và Rotavirus.

- Chỉ dùng thuốc kháng sinh, xịt mũi, nhỏ mũi, hoặc xông thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ.

BSCK2 NGUYỄN THỊ KIM THOA


Thực đơn tăng cường trí nhớ và cải thiện lưu thông máu cho não

Nếu bạn đang cảm thấy hay quên, nguyên nhân có thể là do sự thiếu ngủ hoặc một số nguyên nhân khác bao gồm di truyền, hoạt động thể chất quá mức và có thể do lối sống chưa phù hợp và ảnh hưởng của các yếu tố môi trường. Tuy nhiên, không có nghi ngờ gì nữa chế độ ăn uống đóng một vai trò quan trọng trong sức khỏe não bộ và cải thiện trí nhớ của bạn.

Thực đơn tăng cường trí nhớ của bạn

Thực đơn tốt nhất để thúc đẩy bộ nhớ và chức năng của não là thực đơn giúp tăng cường lưu thông máu tốt cho não. Một nghiên cứu gần đây cho thấy chế độ ăn Địa Trung Hải giúp bộ não chậm lão hóa và phát triển tốt cho cơ thể. Có nhiều bằng chứng cho thấy liên quan giữa những người sử dụng chế độ ăn Địa Trung Hải với cải thiện tốt hơn chức năng nhận thức, trí nhớ và sự tỉnh táo.

Một số thực phẩm để giúp tăng cường trí nhớ của bạn như sau:

Rau quả giàu flavonoid tăng cường trí nhớ

Ăn rau đầy đủ, đặc biệt là rau họ cải gồm bông cải xanh, cải bắp, rau lá xanh đậm, có thể giúp cải thiện trí nhớ. Hãy thử món salad cải xoăn hoặc thay thế rau xanh trong sandwich cuộn. Bông cải xanh xào cũng là một lựa chọn tuyệt vời cho bữa ăn trưa hoặc ăn tối.

Các loại quả mọng, đặc biệt là những quả có màu tối như mâm xôi, quả việt quất và anh đào là một nguồn giàu chất anthocyanins và flavonoid có thể tăng cường chức năng bộ nhớ. Thưởng thức một số ít các loại quả mọng cho một món ăn, trộn vào ngũ cốc hoặc nướng thành một món tráng miệng chống oxy hóa phong phú. Bạn có thể nhận được những lợi ích từ quả tươi đông lạnh hoặc khô và anh đào.

tri nho, thuc don tang cuong tri nho

Thực đơn Địa Trung Hải giúp bạn thông minh hơn

Dung nạp acid béo omega-3 thật đầy đủ để trí não khỏe mạnh

Chúng cần thiết cho sức khỏe não bộ, acid béo omega-3, acid docosahexaenoic (DHA) nói riêng, có thể giúp cải thiện trí nhớ ở người lớn trẻ khỏe mạnh. "DHA là acid béo nhiều nhất trong não. Nó tạo ra cảm giác rằng nếu bạn có mức độ cao DHA trong máu, thì não sẽ hoạt động hiệu quả hơn" Andrea Giancoli, RD, chuyên gia dinh dưỡng của Viện Dinh dưỡng Hoa Kỳ cho hay.

Hải sản, tảo và cá béo - bao gồm cá hồi, cá ngừ vây xanh, cá mòi và cá trích - là một số trong những nguồn tốt nhất của acid béo omega-3. Cá thay thế cho thịt một vài lần mỗi tuần để có được một liều acid béo omega-3 lành mạnh. Cá nướng cho hương vị thật tuyệt vời. Hãy thử cá hồi với bắp cải tím hoặc củ cải đỏ, ăn cá mòi hoặc thưởng thức cá ngừ nướng với rau salad cho bữa tối. Nếu bạn không ăn cá, nên bổ sung acid béo omega-3 từ dầu cá, rong biển hoặc tảo bổ sung.

Dùng thêm quả óc chó để trí nhớ minh mẫn

Quả óc chó nổi tiếng với một tác động tích cực đối với sức khỏe tim mạch, quả óc chó cũng có thể cải thiện trí nhớ. Ăn nhẹ một số ít quả óc chó khi đói, thêm chúng vào bột yến mạch hoặc salad hoặc trộn chúng với một loại rau xào.

Những loại thực phẩm đề cập trên không chỉ tốt cho não, chúng còn duy trì một trái tim khỏe mạnh và có lợi cho tất cả các bộ phận của cơ thể.

TS.BS. Lê Thanh Hải

(tham khảo Eat Right)

9 việc nên làm vào buổi sáng

Buổi sáng chính là thời điểm tốt để nâng cao sức khỏe thể chất, duy trì sự khỏe mạnh. Một ngày mới bắt đầu như thế nào sẽ quyết định chỉ số tâm trạng và sức khỏe của cả một ngày. 9 điều dưới đây sẽ giúp tăng cường sức khỏe của bạn.

1. Bắt đầu một buổi sáng bằng âm nhạc: Hãy để một bản nhạc vui tươi, sống động đánh thức bạn. Thức giấc bằng âm nhạc, mở nhạc trong lúc vệ sinh, ăn sáng sẽ khiến cho buổi sáng của bạn hứng khởi hơn nhiều.

2. Cốc nước mật ong: Cốc nước ấm vào buổi sáng được rất nhiều người coi là bí mật sắc đẹp. Uống nhiều nước không chỉ giúp cơ thể bài tiết tốt, thanh lọc hiệu quả mà còn giúp giữ độ ẩm da và khôi phục độ đàn hồi da. Một phương thức truyền thống là uống mật ong vào buổi sáng, nước muối loãng trước khi đi ngủ. Cốc nước mật ong sẽ giúp cung cấp nước cho cơ thể, kích thích nhu động ruột cũng là lợi ích lớn cho làn da. Nhưng chú ý là sử dụng nước dưới 50 độ C để pha mật ong, nước quá nóng sẽ phá hủy một số chất dinh dưỡng.

Uống một ly nước ấm pha mật ong, hít thở không khí trong lành, vận động nhẹ nhàng buổi sáng... là những biện pháp trong mơ thúc đẩy năng lượng một ngày mới.

3. Đi vệ sinh: Sau một đêm tích tụ trao đổi chất, ruột và bàng quang đã chứa nhiều chất thải. Vì vậy, bạn nên bắt đầu thực hành thói quen vệ sinh vào buổi sáng. Thói quen tốt sẽ là tiền đề bảo đảm sức khỏe suốt cuộc đời.

4. Gõ hai hàm răng: Nhẹ nhàng va hai hàm răng vào nhau có tác dụng tốt trong việc rèn luyện và tăng cường sức khỏe răng miệng. Tranh thủ vài chục giây sau khi đánh răng để thực hiện động tác đơn giản này bạn sẽ thấy răng miệng được cải thiện rõ rệt.

5. Hít thở sâu 10 lần: Vào những ngày thời tiết thuận lợi, bạn có thể cho phép mình đứng trên ban công, từ từ hít vào, giữ hơi một lúc rồi thở ra, lặp lại động tác khoảng 10 lần. Không khí buổi sáng trong lành sẽ làm tăng ôxy của cơ thể mang lại năng lực và giúp bạn cảm thấy tràn đầy năng lượng.

6. Đánh răng bằng nước ấm: Các chuyên gia nha khoa khuyến cáo không nên đánh răng bằng nước quá lạnh hay quá nóng vì các kích thích nóng, lạnh đột ngột sẽ ảnh hưởng đến sự trao đổi chất bình thường của răng và nướu răng, dễ dẫn đến bệnh răng miệng, làm giảm tuổi thọ của răng. Các chuyên gia y tế Nhật Bản khuyên rằng, nên sử dụng nước ấm 35 - 39 độ C để đánh răng là bảo vệ tốt nhất cho sức khỏe răng miệng.

7. Vận động nhẹ: Vào buổi sáng, nếu có thời gian thì thực hiện được vài động tác yoga nhưng nếu quá bận thì hãy tận dụng những khoảng thời gian ngắn để “đánh thức” cơ thể bằng cách gõ nhẹ nhàng vào cơ thể hoặc làm các động tác lắc hông, ngồi xổm... giúp kích thích mạch máu lưu thông. Cũng nên thoa kem dưỡng da nhẹ nhàng, vỗ nhẹ trên da có thể giúp tăng tốc độ hấp thụ chất dinh dưỡng. Đó cũng là một bí quyết làm đẹp của các cô gái Thượng Hải.

8. Bữa sáng ấm áp: Một bữa sáng ấm áp trước khi đi ra ngoài thay vì ăn thức ăn lạnh sẽ tốt cho sức khỏe của bạn. Thời điểm ăn sáng tốt nhất là sau khi bạn thức giấc nửa giờ.

9. Nụ cười: Nụ cười là biểu hiện hấp dẫn nhất để bắt đầu một ngày mới. Nó cũng giúp bạn cảm thấy tự tin hơn để đối mặt với những thách thức. Với nụ cười, hãy tự nói với mình “Một ngày mới tốt lành sẵn sàng để bắt đầu”.

Ngọc Anh ( Theo LifeHackh )

Đậu mắt đen trong phòng chữa bệnh

Các nhà khoa học ở Đại học Michigan nhận định: “nhóm đậu rất giàu dinh dưỡng, có tác dụng tăng cường sức khỏe, là loại thực vật giàu protein duy trì chức năng sống. Đậu giúp giảm nguy cơ mắc bệnh nan y (tim mạch, đái tháo đường, béo phì, ung thư). Đậu giúp trẻ lâu, do giàu chất oxy hóa khử gốc tự do”. đậu mắt đen còn có những công dụng “kỳ diệu” khác.

Đậu mắt đen còn gọi là đậu trắng nhỏ vì nó trắng và chỉ nhỏ như hạt đậu đen, xanh, đỏ…; khác đậu trắng to tên thuốc là bạch biển đậu. Ở Việt Nam nó còn có tên đậu mắt cua vì ở rốn hạt có chấm đen trông như mắt con cua. Nước ngoài gọi nó là đậu mắt đen (black - eyed pea). Tên khoa học Vigna unguiculata. Subsp V.u.unguiculata, họ đậu Fabaceae.

Đậu mắt đen có nguồn gốc ở Ấn Độ và được trồng rộng rãi ở châu Á sau dó được di thực và trồng rộng rãi ở châu Mỹ (từ thế kỷ 17 đến nay). Đậu mắt đen thường được dùng trong các bữa ăn truyền thống của người da đen ở miền Nam nước Mỹ. Đậu mắt đen làm giàu nitơ cho đất, có giá trị dinh dưỡng cao.

dau mat den

Thành phần dinh dưỡng:

Đậu mắt đen có chứa: calories (160); protein (5,23g); carbohydrate (33,5g); tổng số chất béo (0,63g); chất xơ (8,2g).

Đậu mắt đen còn là nguồn cung cấp giàu canxi (211mg/chén), folate (209mg/chén), và vitamin A (1305 IU).

Sử dụng trong dân gian:

Theo truyền thống vùng miền Nam Mỹ, đậu mắt đen mang lại sự thịnh vượng vào năm mới. Đậu thường được nấu với thịt lợn (thịt hun khói, thịt jăm bông, thịt mỡ sấy khô), hành tây thái hạt lựu, kèm với nước sốt ớt nóng hoặc giấm có chút hạt tiêu.

dau mat den

Hầu hết các loại đậu đều có các thành phần dinh dưỡng giống nhau và vì vậy chúng cùng có những tác dụng kể trên.

Theo các nhà nghiên cứu Michigan, các loại đậu sấy khô sẽ có giá trị dinh dưỡng nhiều nhất và mang lại nhiều lợi ích nhất cho cơ thể, đặc biệt là đậu xanh, đậu đen, đậu trắng (đậu mắt cua).

Các nhà nghiên cứu đưa ra lời khuyên chung là mỗi tuần dùng 3 cốc, nhưng một số kết quả nghiên cứu khác lại cho rằng, chỉ cần 1 cốc mỗi tuần là đủ mang lại những lợi ích tối đa cho sức khỏe.

dau mat den

Ở Việt Nam dùng đậu này nấu chè đậu trắng, xôi đậu trắng với nước dừa, nấu với cơm. Đậu mắt đen (đậu mắt cua) đã được thế giới nghiên cứu rất công phu và sâu sắc về mọi mặt: thực vật học, thành phần hóa học. Năm 1995 đã có cả một luận án tiến sĩ (400 trang) nghiên cứu sâu thành phần hóa học (6 saponin, 2 ancaloit…) của đậu mắt đen (trong luận án cũng đã kể đến kinh nghiệm của Việt Nam). Trong lúc đó ở Việt Nam thì hầu như chưa thấy được quan tâm đến đậu này, ngoài một số cách dùng đơn giản theo kinh nghiệm địa phương và thường là nấu cháo (ở một số tỉnh Tây Bắc) cũng chưa có được nhận xét gì đặc biệt để phát huy tiềm năng của đậu mắt đen theo nguyên lý của Đông y và kết hợp Đông Tây y.

Các loại đậu sấy khô sẽ có giá trị dinh dưỡng nhiều nhất

Đậu mắt đen mới được trọng dụng từ 10 năm nay ở một số địa phương nước ta xuất phát từ kinh nghiệm dùng nó kết hợp với tỏi chữa tăng huyết áp cho kết quả đối với một số thể bệnh tăng huyết áp. Giá bán đậu mắt đen từ đó mà ngày càng tăng cao, có nơi là 5.000 đồng 1 lạng (gấp 5 lần lúc đầu).

Theo sách Đông y: bạch tiểu đậu có hạt giống như hạt xích tiểu đậu, nhưng sắc nó trắng cho nên người ta gọi là “Bạch đậu”, giống đậu này khi nó còn non tươi luộc mà ăn thì ngon và mát. Bạch tiểu đậu khí bình, vị cam, không độc. Bạch tiểu đậu, bổ được 5 tạng, điều hòa được trung nguyên, giúp ích được 12 kinh mạch. So với tư liệu của các loại đậu khác thì tư liệu Đông y nói về đậu trắng nhỏ còn chưa được bao nhiêu.

Ông Tôn Tự Mạc đời Đường nói ở sách “Thiên kim dực” rằng: Bạch đậu có thể sát được quỷ khí. Nó là một thứ thuốc của Thận kinh, cho nên nói rằng khi Thận kinh có bệnh mà dùng nó thì rất tốt.

Các nhà y học Nhật Bản và Trung Hoa bàn về bạch đậu rằng: bạch đậu nó có thể làm cho người ta ấm áp được tràng vị.

- Lá đậu trắng (bạch đậu diệp): dùng nó nấu mà ăn có thể làm cho người ta lợi được 5 tạng, hạ được nghịch khí xuống , lá non của nó dùng cũng tốt. Dùng lá cũng giống như hạt…

Bài thuốc đậu - tỏi chữa cao huyết áp:

Công thức và cách dùng như sau: 100g tỏi ta, 100g đậu trắng (loại đậu màu trắng, mày cũng màu trắng, hạt to hơn hạt đậu đen một chút), 2 lít nước. Tỏi bóc vỏ rửa sạch, đậu vo sạch, cho cả vào 2 lít nước ninh nhừ tới khi còn xâm xấp (còn khoảng 1/8 lượng ban đầu) thì cho vào rây chắt lấy nước uống hết một lần; Có thể ăn luôn cả hạt đậu và tỏi đã nhừ. Mỗi tháng uống 1 lần, người bệnh nặng (huyết áp từ 180/100 trở lên) có thể uống 2 lần/tháng. Nên uống khi nước còn ấm và trước bữa ăn khoảng 1 - 2h cho khỏi ngán khi đến bữa cơm.

BS. PHÓ THUẦN HƯƠNG

Rau đắng trị viêm đường tiêu hóa, tiết niệu

Rau đắng còn có tên là cây xương cá, biển súc (Polygonum aviculare L.), thuộc họ rau răm (Polygonaceae). Bộ phận dùng làm thuốc là toàn cây. Rau đắng chứa tanin, saponin, alcaloid, sesquiterpen, vitamin C… Có tác dụng kháng khuẩn. Theo đông y, biển súc vị đắng, tính bình, vào kinh bàng quang. Có tác dụng lợi thủy, thông lâm, sát trùng, chỉ dưỡng trừ thấp nhiệt, diệt ký sinh trùng. Dùng cho người nhiễm trùng đường tiết niệu và tiêu hóa, ho sốt, mụn nhọt, giun sán, ghẻ lở. Liều dùng: 12 - 63g, biển súc tươi 63 - 125g. Dùng ngoài lượng vừa đủ.

Rau đắng tác dụng lợi thủy thông lâm, sát trùng, trị viêm đường tiết niệu, sốt, mụn nhọt…

Biển súc được dùng làm thuốc trị các chứng bệnh:

Trị thấp nhiệt, đái nhỏ giọt và đục, đái rắt, buồn đái luôn luôn, đái ra máu, trong niệu đạo đau buốt và kết sỏi.

Bài thuốc: biển súc 12g, hạt mã đề 12g, cù mạch 12g, hoạt thạch 20g, quả dành dành 12g, mộc thông 12g, đại hoàng 8g, cam thảo 4g, ruột cây bấc đèn 4g. Sắc uống.

Chữa viêm bàng quang cấp tính: rau đắng 12g, tỳ giải 20g, bồ công anh 20g, sài hồ 12g, hoàng cầm 12g, hoạt thạch 12g, cù mạch 12g, mộc thông 6g. Sắc uống. Nếu tiểu tiện ra máu, thêm sinh địa 12g, chi tử sao đen 12g.

Trị người nóng, đái nhỏ giọt, đái rắt, đau buốt: biển súc 20g sắc uống làm nhiều lần. Hoặc kết hợp với mã đề thảo 12g, thạch vĩ 12g, cam thảo cành 6g, sắc uống.

Trị sỏi niệu đạo: biển súc 16g, thân lá dây thòng bong 63g, mã đề thảo 63g. Sắc uống.

Trị các chứng bệnh viêm ruột cấp tính, lỵ do thấp nhiệt. Với biểu hiện tiêu chảy, tiểu ít, miệng khát, rêu lưỡi vàng: biển súc 16g, xa tiền tử 12g, long nha thảo 20g. Sắc uống.

Trị các chứng bệnh eczema, trùng roi âm đạo: biển súc tươi 400g, thêm 3 lít nước. Đun nước để tắm rửa.

Trị giun móc: biển súc 63g. Sắc đặc, uống 1 lần trong ngày; uống liền trong 3 ngày.

Chữa trẻ em đau bụng giun: rau đắng 40-60g, cỏ nọc rắn 40 – 60g. Sắc uống.

Trị giun đũa chui lên ống mật: biển súc 63g, dấm cũ 200ml, thêm 1 bát nước; đun lấy 1 bát, chia làm 2 lần uống.

Trị đái ra dưỡng chấp: biển súc tươi 125g, thêm 2 - 3 quả trứng gà, vài lát gừng. Sắc uống liên tục trong 20 ngày.

Kiêng kỵ: Người không bị thấp nhiệt, trong người yếu mệt (hư) mà tiểu ít không dùng.

TS. Nguyễn Đức Quang

Nghiên cứu mới về cây chùm ngây

Chùm ngây được xem là một trong những loài cây hữu dụng bậc nhất thế giới, do toàn bộ các phần trên cây này đều có thể được dùng làm thức ăn hoặc phục vụ cho các mục đích khác nhau. Do vậy, chùm ngây đang được khuyến khích trồng ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những nước nghèo.

Cây chùm ngây (Moringa oleifera Lam.) được biết đến và sử dụng từ hàng ngàn năm ở các nước có nền văn minh cổ như Hy Lạp, Ý, Ấn Độ.

Cây chùm ngây là nguồn thức ăn tốt cho trẻ sơ sinh và bà mẹ vừa mới sinh con. Vì thành phần dinh dưỡng trong chùm ngây có chứa một hỗn hợp gồm nhiều hợp chất quý hiếm như: zeatin, quercetin, alpha-sitosterol, caffeoylquinic acid và kaempferol. Một số nguồn nghiên cứu cho biết chùm ngây chứa hơn 90 chất dinh dưỡng tổng hợp bao gồm 7 loại vitamin, 6 loại khoáng chất, 18 loại axít amin, 46 chất chống oxy hóa, liều lượng lớn các chất chống viêm nhiễm, các chất kháng sinh, kháng độc tố, các chất giúp ngăn ngừa và điều trị ung thư, u xơ tiền liệt tuyến, giúp ổn định huyết áp, hạ cholesterol, bảo vệ gan.

Lá chùm ngây còn chứa nhiều dưỡng chất hơn cả quả và hoa, tính theo trọng lượng, trong đó vitamin C hơn cam 7 lần, vitamin A hơn cà rốt 2 lần, canxi gấp 14 lần sữa, sắt gấp 9 lần rau chân vịt, đạm nhiều gấp đôi sữa chua và kali gấp 4 lần trái chuối.

chum ngay

Sau đây là một số tác dụng của chùm ngây đã qua các nghiên cứu lâm sàng:

Tăng tiết sữa:

Một thử nghiệm ngẫu nhiên mù đôi, nhóm đối chứng giả dược, dùng chùm ngây để tăng lượng sữa trên phụ nữ sinh non không cho con bú. Thử nghiệm được tiến hành trong 7 ngày với 48 bà mẹ trong độ tuổi từ 18 - 44. Kết quả, sau khi cho uống chùm ngây (250mg dịch chiết lá x 2 lần/ngày) đến ngày thứ 3 có sự gia tăng đáng kể lượng sữa (265 % so với giả dược).

Cải thiện tình trạng hen suyễn:

Một nghiên cứu sơ bộ được tiến hành trên 20 bệnh nhân hen phế quản, trong độ tuổi từ 18 - 44, thuộc cả 2 giới, với liều mỗi ngày là 6 g dịch chiết hạt chùm ngây (3g x 2 lần/ngày) trong 3 tuần liên tục; cho thấy sự cải thiện đáng kể chức năng phổi và giảm hơn một nửa các triệu chứng hen suyễn. Không có nhóm dùng giả dược.

hen suyen

Hạ đường huyết:

Nghiên cứu được công bố vào năm 2011 trong tạp chí Quốc tế y tế và dinh dưỡng, trong đó nhóm nghiên cứu từ Ấn Độ đã cho 68 bệnh nhân đái tháo đường trong độ tuổi từ 30 - 64, thuộc cả 2 giới, uống viên nén làm từ dịch chiết lá chùm ngây trong 3 tháng. Kết quả cho thấy đường huyết sau ăn của nhóm thử nghiệm ban đầu là 210mg/dl giảm xuống còn 191, 174 và 150mg/dl tương ứng sau tháng đầu tiên, thứ hai và thứ ba. HbA1c trong nhóm thử nghiệm ban đầu 7,81% giảm xuống còn 7,4%.

Chùm ngây chứa hơn 90 chất dinh dưỡng tổng hợp

Trong một số nghiên cứu khác cho thấy cơ chế hạ đường huyết sau ăn của chùm ngây không liên quan đến việc tăng tiết insulin, có thể là do sự ức chế hấp thụ đường ở ruột và khả năng chống oxy hóa. Điều này có lợi cho các bệnh nhân đái tháo đường có đề kháng insulin, giúp bảo tồn tuyến tụy tốt hơn.

Làm ẩm da, giảm nếp nhăn:

Một thử nghiệm trên các tình nguyện viên khỏe mạnh không có bệnh lý về da, thoa kem chiết xuất từ lá chùm ngây 3% (thoa 2 lần mỗi ngày) trong 3 tháng mùa đông. Kết quả, làm gia tăng sự hydrat hóa giúp da không bị mất nước, căng và ít xuất hiện nếp nhăn.

Ngoài ra, còn có hàng loạt các nghiên cứu mới tuy chỉ ở mức trong ống nghiệm và trên mô hình động vật nhưng có kết quả vô cùng khả quan như:

- Chống mất trí nhớ trên mô hình chuột bị bệnh Alzheimer.

- Giảm lo âu, chống stress.

- Giảm kích thước vùng nhồi máu cơ tim trong vòng 7 ngày.

- Kháng virút viêm gan b, làm giảm tải lượng virút hơn 85% và gây độc tế bào ung thư gan Hep G2.

- Giảm bớt tỉ lệ suy thận trong bệnh đái tháo đường.

Ức chế sự phát triển và tiêu diệt các tế bào ung thư cổ tử cung, tuyến tụy, đại tràng…

Quan trọng nhất là cây chùm ngây có tính an toàn cao, rất dễ trồng, phát triển nhanh, cho sản lượng lớn, ngay cả ở những nơi khô hạn.

ThS.BS. NGUYỄN TRƯƠNG MINH THẾ

Can thiệp sớm trầm cảm sau sinh

Đa số phụ nữ đều trải qua những thay đổi tâm lý ngay sau khi sinh. Các cảm xúc đó thường không kéo dài, chỉ vài ngày và hầu hết đều vượt qua nhẹ nhàng. Tuy nhiên cần chú ý những dấu hiệu tâm lý tiêu cực, kéo dài phải can thiệp và điều trị sớm.

Sau khi sinh, một số phụ nữ có thể chợt vui, chợt buồn, lo âu, dễ bị kích thích, khó tập trung, mất cảm giác ngon miệng hoặc khó ngủ,… Thường xảy ra ở những bà mẹ sinh con đầu lòng do trong quá trình sinh nở gặp biến cố, sau khi sinh bị áp lực về nuôi con, gia đình không có sự thống nhất về phương pháp,... chăm sóc trẻ, thiếu sự quan tâm của chồng gây căng thẳng cho sản phụ...

Can thiệp sớm trầm cảm sau sinh 1
Ảnh minh họa

Các triệu chứng trên thường xuất hiện khoảng vài ngày sau sinh, và có thể kéo dài trong khoảng 1 tuần thì chấm dứt. Hiện tượng này  được xem là một phản ứng bình thường của nhiều sản phụ. Tuy nhiên, nếu tình trạng đó kéo dài vài tuần với các triệu chứng ngày càng nghiêm trọng như: luôn cảm thấy buồn, thờ ơ với những sự việc chung quanh, ăn không ngon, sụt cân, khó ngủ, luôn cảm thấy mệt mỏi, thường khóc không lý do, cảm thấy bồn chồn, âu lo, dễ tức giận, bi quan về tương lai,... thì sản phụ đã bị rối loạn trầm cảm sau sinh cần có biện pháp can thiệp sớm.

Để điều trị và phòng ngừa các biểu hiện trầm cảm sau sinh, ngoài điều trị bằng phối hợp thuốc chống trầm cảm theo chỉ định của bác sĩ và tâm lý liệu pháp, trước khi sinh cả thai phụ và người chồng cần được giáo dục tiền sản để được cung cấp những kiến thức cơ bản về cách chăm sóc em bé, tình trạng sức khỏe và những nhu cầu tâm lý của người mẹ trong giai đoạn thai kỳ, hậu sản để người chồng có thể hỗ trợ vợ mình một cách tốt nhất.

Ngoài ra các thành viên trong gia đình cần chú ý tạo một bầu không khí vui vẻ, đầm ấm, cùng nhau chăm sóc em bé và quan tâm đến sức khỏe người mẹ để người mẹ cảm thấy được chia sẻ sau lần vượt cạn. Bản thân người mẹ cũng nên chủ động đề nghị những người trong gia đình chia sẻ những khó khăn, vất vả khi chăm sóc em bé để có thời gian nghỉ ngơi, hồi phục sức khỏe sau sinh.

Bác sĩ Thu Lan

Một số phương pháp đánh giá béo phì

Phương pháp đo nhân trắc

Trên lâm sàng, béo phì được biểu hiện bởi sự tăng cân được xác định bằng phương pháp đo nhân trắc lâm sàng, gồm:

-Chỉ số khối cơ thể (BMI): Dưới chuẩn khi BMI < 18.5; Chuẩn: BMI từ 18,5 – 25; Thừa cân: BMI từ 25-30 ; Béo phì: BMI trên/hoặc bằng 30. - Công thức Lorenz (Trọng lượng thực/trọng lượng lý tưởng) x 100%. Nếu > 120-130%: tăng cân. Nếu> 130 %: béo phì. - Độ dày của nếp gấp da (phản ánh lớp mỡ dưới da): Có thể đo bằng compar, ở nhiều vị trí. Trên lâm sàng thường đo ở cánh tay (cơ tam đầu), giữa vai và đùi. Trung bình, độ dày nếp gấp cơ tam đầu là 16,5 đối với nam và 12,5 đối với nữ. Chỉ số cánh tay đùi: 0,58 đối với nam và 0,52 đối với nữ. Chỉ số vòng bụng vòng mông: < 0,9 đối với nam, <0,85 đối với nữ.Siêu âm

Phương pháp này dùng đo độ dày mô mỡ tại vị trí muốn xác định như cánh tay, đùi, bụng… Theo đó, độ dày của mô mỡ nông có thể được đo trực tiếp chính xác bằng cách đặt đầu dò thẳng góc với mặt da, không ép, ở tại điểm muốn xác định. Kỹ thuật có thể phân biệt rõ ràng giới hạn phần mỡ, cơ và xương.

beo phiSiêu âm xác định độ dày mô mỡ.

Chụp cắt lớp tỉ trọng

Dùng xác định được lượng mỡ phân bố ở da và các tạng. Phương pháp này mới được áp dụng gần đây để đánh giá sự phân bố mỡ. Nó có thể định lượng mỡ phân bố ở dưới da và quanh tạng.Từ phần cắt ngang của scanner, có thể tính được bề mặt choán chỗ của mô mỡ. Lợi điểm của phương pháp này có thể xác định bề mặt mô mỡ sâu quanh tạng. Phần cắt ngang qua L4-L5 sẽ cho phép phân biệt chính xác sự khác nhau về phân bố mỡ giữa hai giới. Sự đánh giá bằng phương pháp này cho kết quả đáng tin cậy, chính xác, tuy nhiên giá kỹ thuật đắt, dụng cụ nặng nề khó thực hiện ở các tuyến thông thường.

Ngoài ra, có thể đo lượng mỡ hiện có và lượng mỡ lý tưởng của cơ thể từ đó tính ra lượng mỡ dư thừa.

BS. Lê Xuân Bách

Biểu hiện và cách trị đái tháo nhạt

Minh Hằng (Thanh Hóa)

Đái tháo nhạt tuy là căn bệnh ít khi gây biến chứng nguy hiểm nhưng làm ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày của người bệnh, đôi khi cũng có thể gây biến chứng mất nước nặng. Biểu hiện là người bệnh tiểu tiện nhiều (4-8 lít/ngày), có những trường hợp nặng có thể lên tới 40 lít/ngày; nước tiểu nhạt màu, không có đường, không có protein, tỷ trọng rất thấp. Do tiểu nhiều nên bệnh nhân rất khát và uống rất nhiều. Trẻ em thường kêu khóc đòi uống nước, khi cho uống đủ nước thì nín. Lượng nước vào gần tương đương với lượng tiểu ra.

Các triệu chứng toàn thân: Lúc đầu thường ít thay đổi, ngoại trừ ở trẻ nhỏ có thể thấy dấu hiệu mất nước mạn tính. Da người bệnh khô, xanh và ít ra mồ hôi, trẻ không thấy tăng cân, suy dinh dưỡng, sốt cao không rõ nguyên nhân...

Về điều trị, với mọi bệnh nhân đái tháo nhạt thì điều trị đầu tiên và quan trọng nhất là phải uống đủ nước. Lượng nước uống vào gần tương đương với lượng nước tiểu. Với những bệnh nhân bị bệnh nhẹ có thể chỉ cần uống bù đủ nước mà không cần dùng thuốc. Những bệnh nhân nặng cần phải được điều trị. Việc điều trị đặc hiệu phụ thuộc loại đái tháo nhạt như: đái tháo nhạt trung ương hay đái tháo nhạt do thận. Vì vậy, để xác định bệnh chính xác và điều trị phù hợp, chị cần đến chuyên khoa nội tiết để được khám và tư vấn cụ thể.

ThS. Quang Bảy

Quế giúp tăng cường trí nhớ

Nghiên cứu gần đây của Mỹ cho thấy quế có tác dụng tốt cho não bộ, giúp tăng cường trí nhớ.

Quế có tác dụng chống viêm, kháng khuẩn, kháng virus. Những nghiên cứu trước đây cho thấy quế giàu chất chống oxy hóa vì vậy được xem như là thực phẩm giúp làm chậm xuất hiện bệnh Alzheimer.

Nghiên cứu mới cho thấy một hợp chất khác có trong quế đó là natri benzoat có tác dụng tốt cho não bộ. Kết quả nghiên cứu được công bố trên Tạp chí "Le Journal of Neuroimmune Pharmacology" cho thấy rằng quế giúp cải thiện trí nhớ, làm chậm suy giảm nhận thức và điều này không chỉ tốt cho người cao tuổi mà ngay cả giới trẻ.

Các nhà nghiên cứu của Đại học "Rush et du Veterans Affairs Medical Center de Chicago"- Mỹ đã tiến hành nghiên cứu trên chuột. Để đánh giá khả năng ghi nhớ của chuột, họ đã đặt những con chuột vào trong "mê cung" và đầu kia là miếng mồi ngon. Điều này cho phép các nhà nghiên cứu chia chuột làm 2 nhóm. Nhóm thứ 1 là nhóm chuột tìm đường ra rất nhanh và nhóm thứ 2 phải mất nhiều thời gian để tìm lối ra. Sau đó họ đã bổ sung thêm quế vào thức ăn của nhóm chuột thứ 2 trong thời gian 1 tháng, thử lại thí nghiệm như lần đầu và cho thấy kết quả khả quan hơn.

Khi những con chuột chậm nhất phải mất trung bình khoảng 150 giây để tìm lối ra trong thử nghiệm lần 1 thì trong thử nghiệm thứ 2 chỉ mất khoảng 60 giây và như vậy sau 1 tháng bổ sung thêm quế vào trong khẩu phần ăn, chuột đã mất ít thời gian hơn để tìm lối ra (giảm được 90 giây). Vậy điều gì đã xảy ra? Các nhà nghiên cứu đã tiến hành phân tích tế bào của não chuột, họ đã nhận thấy rằng chính natri benzoat có trong quế có tác dụng trực tiếp lên vùng hải mã- trung tâm chính của bộ nhớ, ngoài ra còn có tác dụng cải thiện cấu trúc của tế bào.

Tuy nhiên nếu natri benzoat được cho là có hại cho gan khi tiêu thụ lượng lớn thì theo các nhà khoa học đã nhận thấy khá an toàn trong quế và khi được chuyển hóa sẽ nhanh chóng đào thải qua nước tiểu.

Những thử nghiệm ban đầu đã thành công trên chuột nhưng cần phải có những thử nghiệm trên người. Tuy nhiên một điều chắc chắn rằng chỉ cần rắc nhúm quế vào bánh ngọt hay trà, bạn sẽ có thể tiêu thụ một lượng chất chống oxy hóa! Hơn thế nữa quế còn giúp điều chỉnh lượng đường trong máu, giảm cảm giác mệt mỏi.

Bs Ái Thủy

(Theo Metronews.fr)